Tuổi
trẻ của cha là biển cả. Tuổi trẻ của con sẽ là bầu trời.
Tôi mở cửa sổ, nhìn bầu trời đêm
Bangkok bao la. Những tòa cao ốc vẫn óng ánh đèn và xe hơi vẫn nườm nượp trên
dãy cao tốc trước mặt. Bất giác, tôi đưa tay lên cao, chẳng rõ bản thân muốn
làm gì. Không viễn tưởng thèm hái một ngôi sao. Cũng không toan tính bắt chút
không khí vào đùa chơi trong lòng bàn tay.
Tôi nhìn chằm chặp đôi tay mình mảnh
dẻ. Bàn tay tôi nhỏ nhắn như tay em bé gái, “đôi tay ếch con” như ngày bé cha
mẹ vẫn gọi yêu. Cả bàn tay mềm mịn tưởng không xương, chẳng lấm dù là một vết
chai của việc cầm bút. Ai từng nắm tay, bắt tay tôi đều ấn tượng rằng tôi rất
sướng: đôi tay chẳng động việc gì.
Ngắm tay mình kiêu sa giữa trời, tôi
nhớ đôi tay cha to lớn, khô ráp, đen nắng, sần chai – dấu tích mà thời gian
cũng không làm phai được từ chuỗi tháng ngày ông lênh đênh biển cả. Tôi nợ đôi
tay ấy quá nhiều. Thế nhưng số lần – đếm được bằng đầu ngón tay – tôi nắm đôi
tay ấy lại vào những ngày mà nó giằng co giữa nóng lạnh của sự sống và cái
chết. Tôi không mảy may chuyện mình nên nắm tay cha khi tay ông còn ấm áp.
Lần cuối chạm tay cha, khi luồn tay
mình vào bàn tay ông đã cứng, tôi biết chắc một điều: từ giây phút ấy trở đi,
mỗi lần mân mê đôi tay mình công chúa, tôi sẽ hối hận. Sách vở, lời hay ý đẹp
từ internet khuyên tôi quên chuyện buồn mà vui sống. Tôi chỉ cười nhạt. Những
ai tin lời hoa mỹ đó, chỉ vì họ chưa đến lúc nghiệm ra rằng trong cuộc đời, mỗi
người chắc chắn sẽ sống cùng ít nhất một nỗi day dứt. Quên đôi khi là bất khả
thi. Ký ức chỉ tạm lắng và khi gặp một hình ảnh, một sự vật nhang nhác, nó sẽ
khơi lại.
Tôi, đáng thương và đáng trách thay,
ân hận không chỉ một nỗi.
Tôi đã luôn nung nấu viết một tiểu
thuyết về cha – tuổi thơ cô đơn, tuổi trẻ xa xứ, cuộc đời ngang dọc nhiều miền
đất và đại dương. Tôi đã định dành cho ông bất ngờ to lớn. Tôi đã nghĩ mình còn
ối thời gian.
Khi tôi bắt đầu viết về ông – lúc
này đây – thì món quà đã thành lời tạm biệt. Những câu chuyện trong đầu tôi
bỗng dưng không liền mạch, không phiêu lưu, không lãng mạn như từng ngẫm nghĩ.
Chỉ có những khoảnh khắc rất thật về cha mà trí nhớ tôi, một cách bí hiểm, đã
chọn lưu lại.
Biển
1.
Tôi ghét biển. Biển đem cha đi mãi suốt những ngày tôi bé con. Nên theo góc độ
nào đó, biển đã nuốt mất một phần tuổi thơ của tôi vào bụng.
Vài tháng sau khi tôi chào đời, cha
bắt đầu đi tàu. Những chuyến buôn bán vượt đại dương không cho phép cha chứng
kiến tôi thực hiện cú lẫy đầu tiên và nghe tôi bi bô “ba ba…”. Khi cất tiếng
gọi cha lần đầu, tôi nói đã sõi lắm rồi. Sau những chuyến hải trình kéo dài
hàng tháng trời, có khi ngót nghét cả năm, cha luôn đem về cho tôi cơ số quà bù
đắp thương nhớ. Sinh ra thời đất nước chỉ vừa mở cửa, nhưng tuổi thơ tôi đầy ứ
những hộp sữa bột ngoại, những lon nước trái cây đắt đỏ, búp bê mặc váy ren
hồng biết đi biết hát, máy bay điều khiển từ xa… Còn nhiều nhiều nữa những thứ mà
trẻ con ngày ấy chẳng biết là có trên đời để mà tưởng tượng, thèm muốn. Nên
theo góc độ nào đó, biển đã cung phụng cho ấu thơ tôi được vạn phần sung sướng.
Dù thế, tôi vẫn ghét biển.
2.
Cha lên bờ khi tôi 8 tuổi. Vốn quen cha chỉ ở nhà dăm ba tháng mỗi năm, nên
việc ông có mặt trong tất cả bữa ăn gia đình gây cho tôi chút lạ lẫm ban đầu.
Từ một món thực phẩm theo mùa như bánh trung thu, ông trở thành cơm bữa. Cái
trầm trồ nghe chuyện về bến cảng, chim âu, cổ tích các loài cá và những vùng
đất lạ mòn vẹt dần khi đêm nào cha cũng kể. Cái nô nức của một chiều tan học
thấy cha đón ở cổng trường cũng lụi tàn nhanh. Mỗi ngày mỗi gặp, có lẽ vì thế
mà tôi càng ít gần ông. Đôi mắt của con bé 8 tuổi chỉ mới biết ưa thích những
thứ hiếm lạ, chứ nào hay việc tìm kiếm, trân trọng điều quý báu ẩn giấu trong
những cái quen thuộc.
Từ ngày cha thôi đi tàu, mùa Hè nào
gia đình tôi cũng đi nghỉ mát ở biển. Cha hào hứng ra mặt ngay từ phút hành lý
được chất lên xe, và càng gần đến biển tinh thần ông càng phấn chấn. Đến nơi,
cha ùa ra tắm biển trước các con, dẫu Mặt Trời treo bỏng rát trên đỉnh đầu. Tôi
nhận ra, cha dành cho biển một thứ tình cảm khá phức tạp và vĩ đại. Một khối
lòng trộn lẫn yêu đương đôi lứa, thân thuộc anh em và kính trọng hàm ơn. Ánh
mắt ông nhìn biển… Da diết và bỏng cháy. Êm đềm và tha thiết. Thuộc về và
ngưỡng vọng.
Tôi hy vọng sau này mình cũng có thể
nhìn một điều gì đó trong cuộc sống này bằng ánh mắt như thế.
3.
Ngày nhỏ, cứ đi tắm biển là tôi phăm phăm cùng chiếc phao ra xa thật xa, mặc kệ
hôm ấy biển động sóng cao đến đâu. Máu liều thủy thủ của cha có lẽ đã di truyền
vào cô con gái.
Nhưng từ năm 10 tuổi, tôi mất hứng
thú với việc tắm biển, nếu không muốn nói là hoảng sợ. Năm đó, tôi sém chết
đuối khi sa chân vào một hố lốc xoáy gần bờ. Lúc lặn ngụp trong hốc nước cao
quá đầu, tôi vẫy vùng để ngoi lên nhưng lòng chẳng thoáng chút sợ chết. Tôi nhớ
rõ như thế. Tôi biết cha – một thủy thủ, một tay bơi cự phách – sẽ cứu. Và ông
đã đến nhấc bổng tôi lên, nâng chặt trong đôi tay rắn chắc.
Bá cổ cha, hổn hển thở vì sặc nước,
một niềm tin, một cảm giác an toàn đã đến trong tôi và ở lại suốt nhiều năm sau
này: dù bất cứ chuyện tồi tệ gì xảy đến, dù sai phạm gì, tôi vẫn luôn có cha
nâng đỡ. Dù tôi chạy đi xa như thế nào, vẫn luôn có một vòng tay để ùa về, rồi
vùi chặt trong đó.
4.
Có một lần dạo biển cùng cha, tôi chẳng nhớ rõ khi ấy mình bao nhiêu tuổi, còn
rất bé hay đã dậy thì, ông đã nhìn về phía những con sóng đang đạp nhau vào bờ
và nói: “Bầu trời của đàn ông ngày càng rộng. Bầu trời của phụ nữ ngày càng
hẹp. Nhưng con, hãy đi thật xa vào, con gái!”.
Ý nghĩa câu nói đấy, đến tận ngày
nay tôi vẫn còn chút mơ hồ. Những người cha thường mong con gái sống an nhàn,
yên lắng và hạnh phúc. Nhưng cha tôi dường như đã lái tôi sang một con đường
rộng, nhiều màu nhưng cũng hứa hẹn không ít trồi sụt. Cha lạ. Mà có lẽ ông
không lạ. Ông chỉ là đã nhìn thấu con người tôi từ lúc ấy.
Và ngay giây phút đó, câu nói ấy đã
khiến tôi ngước lên bầu trời, mơ ước và quyết định hòa làm một: Tôi sẽ đi thật
xa, sẽ nhìn thế giới thật nhiều, nhưng sẽ bằng một con đường khác với cha. Tôi
sẽ kiến tạo con đường riêng của mình để có được một tâm hồn giàu có như ông.
Trời
5.
May mắn (cho xã hội) là tôi đã chẳng thể thành bác sĩ, nếu không tôi hẳn đã là
một tay lang băm cự phách. Hay có khi tôi đã chán ghét trường Y, ruồng rẫy cái
ước mơ một-thời-rất-lớn mà dở dang việc học.
May mắn là cha đã nhận ra tôi không
hợp làm bác sĩ, bằng mọi cách ngăn cản. Khá ngược đời so với nhiều bậc cha mẹ
tìm mọi cách tống con vào trường Y vì sang, vì tương lai sáng lạn.
Thật ra, nếu ép thân cố gắng, tôi
cũng có thể thành một bác sĩ giỏi. Nhưng tôi vốn không có tố chất của một bác
sĩ tốt – Điều này phải nhiều năm sau tôi mới đủ can đảm thừa nhận. Một bác sĩ
giỏi mà không tốt thì đại họa! May mắn là cha đã nhận ra! Con cái khi bị cha mẹ
can ngăn chuyện gì thường cố chấp, càng lao đầu làm theo ý mình để chứng tỏ bản
thân. Cái tự ái trẻ con khiến con cái quên rằng những đôi mắt được thời gian
tôi luyện có khả năng nhìn sâu và nhìn xa hơn. Vì vậy, chỉ một lần cũng được,
trước khi quyết định đời mình, hãy lắng nghe cha mẹ. May mắn là tôi đã làm như
thế.
Tôi yêu và tận hưởng cuộc sống mình
hiện tại nhiều vô đối. Nhiều đến mức tôi quên mất đã có thời mình học ngày học
đêm để đậu y khoa. Nhiều đến mức tôi không nhớ cả lý do mình khoái thành bác
sĩ. Khi bản thân nhận ra chẳng thể nhớ được điều gì đã gieo mầm ước mơ, tôi
chắc chắn ước mơ đó chỉ như cú say nắng đầu đời. Đẹp nhưng chóng phai.
Thật ra lúc đó tôi đã toan dọn khỏi
nhà, làm mình làm mẩy để được toại ý. May mắn là cha đã kể cho tôi nghe một câu
chuyện…
Năm ấy, cha sang Nga du học, nung
nấu thành giáo viên Vật lý. Nhưng cuối cùng, ông chuyển sang Hàng hải vì đất
nước cần nhân lực ngành ấy. Đến khi về nước, ông trở thành giảng viên dạy trong
trường Hàng hải. Rồi các con ra đời, ông bỏ công việc ổn định, theo thuyền vượt
ngàn dặm đại dương kiếm tiền nuôi con.
Mơ ước thưở thanh niên của cha – ông
từ bỏ, tái theo đuổi, rồi lại từ bỏ. Để tôi được sinh ra và lớn lên trong sung
sướng. Để giờ đây tôi có thể theo đuổi bất kỳ ước vọng nào bản thân nghĩ tới.
Mơ ước thưở thanh niên của cha – tôi
đã nhớ về nó suốt trên con đường của mình, mỗi khi tôi mệt lả và muốn từ bỏ.
Tôi được bọc trong may mắn, khi có một người hy sinh ước mơ cá nhân, cho tôi
được tự chủ sống như mình thích. Nên tôi chỉ có thể đi, không thể dừng. Nên tôi
có quyền ngã, nhưng bắt buộc phải biết đứng dậy.
6.
Cha ốm, lần thứ hai.
Ông nằm yên trên giường, mắt khép
hờ, mặt đượm đầy mệt mỏi. Tôi đưa tay vuốt làn tóc bạc mỏng mảnh trên đầu ông,
chợt thấy là lạ. Cũng phải vài năm rồi tôi mới nhìn cha kỹ đến thế. Ông già đi
quá nhiều so với hình ảnh mà tôi luôn giữ trong đầu. Tôi nhìn và bỗng nghĩ…
Những nếp nhăn, những vết sẹo, những vết chai trên người cha – mỗi vết đều mang
một câu chuyện. Những câu chuyện trải dài từ thưở ấu thơ ở làng quê nghèo, sang
tuổi niên thiếu trên nước Nga trắng tuyết, sang tuổi trẻ bôn ba biển cả… Tôi
rất tò mò, nhưng chẳng hiểu sao lại không thể hỏi thành lời khi cha tỉnh dậy.
Tôi chỉ lén nhìn mà tưởng tượng về những dấu vết cuộc sống đã đi qua đời ông,
những sự kiện đã dần hun đúc nên con người ông.
Khi thiêm thiếp trên giường, trong
giấc mơ lúc ốm, trong giấc mơ lúc biết mình gần đất hơn trời, cha đã nghĩ gì?
Những khoảnh khắc nào của cuộc đời đã tái hiện lại trong chuỗi ký ức chập chờn
ấy?
Cha thiêm thiếp trên giường. Tôi
bỗng thấy xa lạ và xấu hổ. Cha – người mà tôi nghĩ mình thân quen nhất, hóa ra
tôi lại chẳng mấy thấu hiểu.
7.
Cha ốm, lần thứ ba.
Bác sĩ bảo ông không qua khỏi hai
ngày. Nhưng ông đã hôn mê gần một tháng trước khi vĩnh viễn lìa xa tôi.
Tôi đã không khóc quá nhiều trong
những ngày tang ma. Tôi đã không khóc khi nhớ về ông. Tôi chỉ luôn rối trong
ngàn ngàn câu tự hỏi: Vì sao ông lại cố gắng kéo dài sự sống, bất chấp lục phủ
ngũ tạng đều mệt nhoài? Là ông muốn sống, dù chỉ đời thực vật gắn liền máy thở?
Là ông chuẩn bị tâm lý cho tôi, phải khi chắc rằng tôi sẽ được định tâm và định
thần, không quỵ ngã thì ông mới rời đi? Hay là cá tính ngoan cường không khuất
phục của một thủy thủ đã ăn sâu vào máu thịt, buộc ông chống chọi đến cùng?
Mãi mãi chỉ là những câu tự hỏi.
Mãi mãi tôi sẽ luôn tự nhủ rằng mình
sẽ kiên cường đến phút cuối bất chấp con đường mình đi gập ghềnh thế nào. Cuộc
sống quý lắm. Một người sống trên đời là vì mình, và không chỉ vì mình.
8.
Cha mất. Gần 3 tuần sau, tôi chuyển sang Bangkok làm việc. Người trợn mắt trách
tôi vô tâm, vô cảm, cha vừa mất mà đã “hồi phục” chóng vánh để tìm một chân
trời mới. Người hiểu tôi hơn thì thở dài, cứ khuyên tôi khóc đi cho nhẹ lòng,
đừng cố ép mình tươi tỉnh, cứng rắn.
Tôi chẳng tìm thấy một cái cớ nào để
bưng mặt khóc mãi. Nhớ một người, có nhất thiết phải sầu não? Thương một người,
cố nhất thiết tỏ ra mặt cho ngàn vạn người khác xem?
Cha mất. Tôi đi. Đã đến lúc công
chúa rời chiếc lồng son và để cuộc đời đánh đập đôi chút. Đã đến lúc đôi tay
mềm như bún của tôi xây xát đôi chút.
Tôi đang đi những bước đầu tiên trên
con đường chỉ có một hướng tiến-về-phía-trước. Tôi đang học cách chịu trách
nhiệm 100% với cuộc đời của mình. Cha không còn là bình phong cho những sự vụ
rắc rối tôi gây ra. Cha không còn lặng lẽ chờ tôi trong phòng khách tối đèn,
chỉ an tâm đi ngủ khi tôi mò về nhà – thường rất muộn, sau hàng giờ dài miệt
mài làm việc và bù khú bạn bè.
Tôi đang đi với một nụ cười. Vì cha
yêu nụ cười tôi. Vì cha là một tia nắng ấm áp luôn tỏa sáng dẫn đường cho cô
con gái rượu.
9.
Một mình trên chuyến bay rời Việt Nam. Một mình trên bầu trời. Tôi nhìn những
tảng mây ú nụ, xốp bồng rất dễ thương bên ngoài cửa sổ, bất chợt vui thích
trong ý nghĩ rằng biết đâu “thiên thần papa” của tôi đang ngáy khò khò trên một
đám mây to xinh nào đấy. Có khi tôi đã lướt qua ông mà không thể thấy.
Trên đùi tôi để mở cuốn album hình
của ông xa xưa trong một mùa nước Nga phủ tràn tuyết trắng. Những tấm hình lẩn
khuất một chuyện tình…
Ngoài mẹ tôi, tôi chưa từng biết đến
những chuyện tình – một phần tuổi trẻ đa sắc của ông. Tôi tưởng tượng… rồi bỗng
tay nắm lấy tay mình. Nhất định một ngày, tôi sẽ tìm thấy một bàn tay khác để
sưởi. Nhất định một ngày, tôi sẽ tay trong tay một người nào đấy cùng bước
trong cuộc sống này. Nhất định một ngày, cha tôi sẽ yên lòng rằng cô con gái
nhỏ của ông sẽ không một mình lang thang bầu trời.