Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2012

Lặng thinh


                                       
Thế là chia tay. Bình lặng và dửng dưng như hai người lạ bước vội qua nhau trong một chiều tắt nắng. Anh đi về những khoảng trời huyên náo không em, và em - gói ghém tất thảy kỷ niệm để khép lại sau lưng một khoảng nhớ không êm đềm.
Đừng nói với nhau những lời sáo rỗng lưng chừng và hẹn gặp ở một ngày xa xôi nào đó quá mông lung. Bởi cả hai đều biết đây-là-phút-sau-cùng.
Đừng ngoảnh lại phía sau
khi đã bước vừa xa để không còn nghe thấy tiếng nấc khẽ của một người dưng đi ngược hướng mình. Bởi tất cả xung quanh giờ-buộc-phải lặng thinh.
Và cũng đừng vì quá khứ mà thứ tha hay khoan dung những lỗi lầm. Bởi hạnh phúc về sau anh và em đáng có - không còn chỗ cho khoảnh khắc lúc này dùng dằng hai tiếng “ăn năn”.

Thứ Sáu, 16 tháng 11, 2012

Ngày anh bảo em quên










 Thành phố tám triệu dân của xứ sở nhiệt đới này mấy khi có mùa Đông, nhưng với những kẻ yêu nhau thì chỉ một chút giận hờn xa cách đã đủ để thấy gió buốt tràn về và thắt lòng tự hỏi: “Tìm đâu chút ấm bây giờ? Và tìm đâu những cảm giác ngày xưa?”
Biết lòng mình cũng chết khô với những giận hờn vu vơ của tình yêu đã qua mùa yên ổn. Như trò trốn tìm của hai mùa Mưa - Nắng, của tiết trời Hạ - Đông, anh lầm lũi như mưa cứ rơi và giấu tan mình vào đất, em vô tư như nắng cứ dáo dác soi tìm mà chẳng khi nào thấy được anh. Không hiểu nhau nên muôn đời không thể là của nhau...
Ngày anh bảo em quên, Sài Gòn mùa mưa bỗng hanh hao đầy nắng.
Anh thổi nỗi buồn vào gió cuốn đi những yêu thương không tròn vẹn của những ngày-còn-em, và em thả mưa trở ngược về trời để lòng cạn khô đừng thêm nhiều vướng bận. Hai đứa an nhiên với niềm quên, nỗi nhớ do chính mình tự đeo mang, dù đâu đó những yêu thương "ngày cũ-bây giờ" vẫn cứ lập lờ và đan miết vào nhau kể từ “Ngày anh bảo em quên”.
 hay cũng chính là ngày hai đứa không bao giờ thôi nhớ...

Thứ Năm, 23 tháng 8, 2012

Ở LƯNG CHỪNG HẠNH PHÚC






“Sài Gòn giấu anh kỹ quá, để đến khi em tìm ra, anh đã thuộc về người ta mất rồi…”. Em nhoẻn cười và nói bâng quơ, như cách em vẫn thường tỏ vẻ bông đùa để che đi những nỗi buồn vô cớ.

Chúng ta gặp nhau quá muộn trong đời. Thế nên anh chẳng thể trả lời câu hỏi “Em là gì giữa bộn bề đời anh?”, bởi anh đã có một người gắn bó đủ nhiều để đừng yếu lòng trước những ngã rẽ lạc đường của thương yêu. Còn em, cũng chỉ có thể thở dài cho cuộc gặp gỡ mà mình đã chậm chân và khẽ đặt lên môi nụ cười chấp nhận mỗi khi gần anh – như hai người tri kỷ. Trong mối quan hệ không thể gọi tên này, em không cần đến danh phận và anh không cấm cản được hai tấm lòng đồng điệu tìm đến nhau. Tự hai đứa biết đâu là ranh giới của yêu thương trễ nải để biết dừng lại kịp trước lúc tổn thương thêm bất kỳ ai. Khái niệm “đến trước - đến sau” đã phân định rõ ai cần được chở che và đâu là chốn quay về. Hẳn không phải là em.

Yêu anh là chấp nhận mọi thứ ở lưng chừng, kể cả hạnh phúc. Đến vui cũng không quá trớn và buồn cũng phải gói ghém đi, bởi chỉ một chút xao động dù là rất khẽ, hạnh phúc la đà kia sẽ rơi hẫng không phanh. Em vẫn cứ bên cạnh, lắng nghe những buồn vui thường nhật, những giận hờn lẫn ngọt ngào của tình yêu anh đang có. Anh vẫn đi về nơi chốn cũ bình yên của riêng mình bằng hết sự quan tâm và trân trọng, mặc cho khoảng nhớ trong lòng đã xốn xang ít nhiều bởi một hình dung khác. Biết những khoảnh khắc này rồi sẽ nhanh chóng qua, cuối đoạn đường em cũng chỉ là người xa lạ nhìn về hạnh phúc của người ta. Biết là người dưng, vẫn thi thoảng nhủ thầm: “Nếu anh gặp em từ đầu…”.

Thời gian không thích hợp gặp một người thích hợp, kết cục vẫn là viển vông. Chỉ có thể cùng đi qua những con đường thành phố như hai kẻ bộ hành quen mặt nhưng biết trước sẽ phải rẽ về những ngã khác nhau. Sài Gòn những đêm mưa rả rích, em lẳng lặng ngồi sau vai anh, rón rén như một kẻ quá giang trên chuyến xe mà mình đã đến trễ. Tình cảnh trớ trêu là vậy, mà lòng em khấp khởi mừng còn hơn cả tiếng mưa đang rộn rịp rơi xuống mặt đường, bởi người ngồi trước mình điềm đạm bảo: “Nép sát vào anh, coi chừng mưa ướt áo”. Anh lúc nào cũng thế, hiền lành và đầy chu đáo - sự dịu dàng dễ khiến người đối diện ngộ nhận. Bên cạnh nhau, hai đứa hiểu được cái giá phải trả cho hạnh phúc đôi khi không hề dễ chịu – dù chỉ là thứ hạnh phúc tạm bợ và đầy nghi hoặc khi nghĩ đến ngày mai.

Rồi anh cũng về lại với người thương thật sự, còn em một mình tiếp tục trên con đường dài kiếm tìm một người không phải dành tình cảm chia hai. Vậy có lẽ anh nên buông tay để em còn kịp bước, bởi anh không muốn trên hành trình dài rộng kế tiếp của yêu thương, em lại phải một lần nữa đến muộn. Hạnh phúc chưa bao giờ trọn vẹn khi ở giữa lưng chừng. Trong cuộc đời này, đừng để mình trở thành người-dưng-thân-thuộc của thêm một ai đó nữa, được không?

Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012

Như chờ tình đến rồi hãy yêu

Sáng nay tôi nhìn thấy em ở ngã tư. Đèn đỏ còn sáng và đồng hồ đang đếm ngược. Ba mươi chín giây. Em đang vội, chiếc xe đạp điện màu đỏ cứ nhích dần lên. Không chỉ mình em, nhiều người khác cũng vội. Những chiếc xe máy cứ nhích dần, nhích dần lên…Sống là không chờ đợi. Dù chỉ mấy mươi giây.
Tôi nhớ có một hôm nào đó, em đã nói với tôi rằng đấy là một triết lý hay, ta phải tranh thủ sống đến từng giây của cuộc đời.
love in the garden Như chờ tình đến rồi hãy yêu   Phạm Lữ Ân
Nhưng em biết không, đừng vì bất cứ một triết lý hay nào mà gạt bỏ đi ý nghĩa của sự chờ đợi. Bởi chờ đợi ở đây không phải là há miệng chờ sung, mà chờ đợi là một phần của bài học cuộc đời. Em sẽ bằng lòng đợi chứ, nếu em đã học biết về điều sẽ xảy ra?
Đợi khi xếp hàng ở siêu thị, vì biết rồi sẽ đến lượt mình và rằng đó là sự công bằng. Đợi tín hiệu đèn xanh trước khi nhấn bàn đạp, vì biết đó là luật pháp và sự an toàn cho chính bản thân. Đợi một người trễ hẹn thêm dăm phút nữa, vì biết có bao nhiêu việc có thể bất ngờ xảy ra trên đường. Đợi một cơn mưa vì biết rằng dù dai dẳng mấy, nó cũng phải tạnh. Đợi một tình yêu đích thực vì biết rằng những thứ tình yêu “theo phong trào” chỉ có thể đem đến những tổn thương cho tâm hồn nhạy cảm của em…
Vì vậy mà hãy cứ bình tâm, em nhé. Cuộc đời ta cũng như rượu vang vậy. Có những loại vài tháng là uống được. Nhưng cũng có loại phải lưu giữ rất nhiều năm để đạt độ chín cần thiết. Điều quan trọng không phải là sớm hay là muộn, mà là đúng lúc. Bởi mọi thứ đều có thời điểm của riêng mình. Vị rượu ngon chính là phần thưởng của tháng năm.
Cũng như câu chuyện về hai chú sâu kia. Sâu anh nằm trong cái kén cảm thấy bực bội vô cùng, nên cố vùng vẫy thật mạnh để mong thoát ra ngoài. Vùng vẫy ngày này qua ngày khác, sâu mọc đôi cánh bé. Nó lại cố ra sức đập cánh, đôi cánh dần lớn ra, cứng cáp. Và cuối cùng, sâu anh hóa bướm, rũ bỏ cái kén chật chội để bay lên cao. Khi đã thoát ra rồi, nó mới thấy sâu em vẫn còn mắc kẹt trong kén. Nó hăm hở lao đến giúp em phá vỡ cái kén và đưa sâu em ra ngoài.
Thế nhưng, em biết không, sâu em mới chỉ có một đôi cánh mỏng manh bé xíu. Nó không thể bay lên như anh và cũng không còn chiếc kén để bảo vệ thân mình. Bướm anh khóc ròng nhìn em bị đàn kiến tha đi.
Tôi nhớ có một câu danh ngôn, đại ý rằng “Bạn sẽ có được con gà con lông vàng mũm mĩm bằng cách ấp trứng, chứ không phải bằng cách đập vỡ cái trứng ra”. Vậy thì đó là lý do tại sao con sâu phải nằm trong kén đủ ngày rồi mới được hoá thân. Cũng như con người phải chín tháng mười ngày mới nên rời lòng mẹ. Đó cũng là lý do của ba mươi chín giây đèn đỏ, của mười hai năm miệt mài trên ghế nhà trường, của một mối tình thiết tha còn chưa chịu hé lộ. Và của rất nhiều khoảnh khắc chờ đợi trong cuộc đời.
Mọi vật đều có thời điểm của mình. Em đừng cố rút ngắn thời gian. Nếu trái chưa chín thì đừng nên hái. Nếu nhộng chưa chín thì đừng phá vỡ kén tằm. Nếu chưa gặp được một tâm hồn đồng điệu thì đừng trao gửi trái tim. Đừng để thế giới này tác động.
Xuân qua hè tới. Đông sang thu về.
Đừng nôn nóng khi nhìn thấy những loài cây khác đã khoe lá khoe hoa. Hãy cứ bình tâm. Hãy đợi thời điểm của mình, em nhé. Hãy tận dụng khoảng ngừng lặng này để bồi đắp cho chính mình và học cách khám phá điều sẽ xảy ra. Nếu em biết suy tư, khoảng thời gian chờ đợi không bao giờ là vô nghĩa.
Vì thế, dù cuộc sống có trôi nhanh biết mấy, em nhớ để dành trong đời mình những khoảng lặng thời gian cho sự đợi chờ. Không chỉ như chờ đèn xanh bật sáng ở ngã tư, mà như chờ rượu chín rồi hãy uống.
Như chờ tình đến rồi hãy yêu!

Thứ Hai, 13 tháng 2, 2012

Hãy kiêu hãnh và tự do, như những chú gà rừng

    Tôi là chúa tể của chính tôi…
    (Benjamin Franklin)
     
Anh bạn 18 tuổi mấy hôm nay đang lên tiếng đòi tự do: được mua xe mới để tự lái đi học thay vì để ba đưa đón hoặc đón xe bus, được đóng cửa phòng khi tiếp bạn thay vì mở cửa như mẹ quy định, được thỉnh thoảng ngủ đêm lại nhà trọ của bạn cùng lớp khi có liên hoan thay vì phải về nhà trước mười rưỡi tối…
Bạn nói với tôi rằng thật quá “oải” với sự bảo bọc của cha mẹ. Thậm chí, mỗi lần cắt tóc bạn đều phải theo ba đến tiệm quen. Trong câu chuyện, bạn thú nhận rằng, cho đến tận hôm nay, bạn chưa bao giờ tự xúc cơm vào chén của mình. Đó là việc của mẹ, bà, hoặc cô giúp việc. Bạn chỉ việc bưng tô cơm đã xúc sẵn lên ngồi trước ti vi và ăn.

Đến năm mười bốn tuổi tôi vẫn chưa tự xếp quần áo cho mình. Tất cả đều là việc của mẹ. Giặt, phơi, xếp, ủi, treo lên móc. Mỗi sáng, tôi chỉ việc mặc những chiếc áo rất thẳng thớm tinh tươm để đến trường. Cho đến một ngày nọ mẹ đi vắng, và trời trưa đang nắng bỗng lắc rắc vài hạt mưa. Không cách nào khác, tôi phải làm. Lấy quần áo từ sào phơi, ôm vào phòng. Tôi chợt nhận ra quần áo vừa lấy từ sào xuống thật là thơm, một mùi hương mới mẻ, lạ lẫm, thanh sạch, “nóng giòn”. Mùi của nắng. Và lần đầu tiên trong đời, tôi ngồi xuống bên đống quần áo, lóng ngóng, bắt đầu xếp từng cái một.
Tôi chỉ muốn nói rằng …những ví dụ đó không hoàn toàn là những việc nhỏ nhặt.
Khi không tự làm điều gì đó cho bản thân – chẳng hạn như việc xúc cơm, với bạn, hay việc xếp quần áo, với tôi – ta có thể tận hưởng cảm giác thoải mái của sự bảo bọc (hay lười biếng), nhưng đồng thời, chúng ta cũng đang đánh mất dần – từng chút – một điều rất có ý nghĩa với đời mình: bản năng độc lập.
Bản năng mạnh mẽ nhất của con người là học lấy những kỹ năng sống nhằm tự tồn tại. Vừa lọt lòng mẹ, chúng ta khóc oe oe đòi sữa, vì “con khóc mẹ mới cho bú”. Không có ai dạy cả, Rồi ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi…Rồi nhảy cú nhảy đầu tiên. Ngã cú ngã đầu tiên…Cha mẹ đứng quanh vỗ tay cổ vũ, khen ngợi. Nhưng chính chúng ta, dù bé nhỏ, mong manh như vậy, khi mới vài tháng tuổi đã tự mình làm nên những kỳ tích.

Hãy nhớ lại lúc bé thơ. Khi nào mẹ cho bạn cầm kéo cắt hình chiếc lá: đó là khi mẹ tin rằng bạn có thể cầm kéo mà không tự cắt vào tay mình. Ba mẹ không bế ẵm ta nữa, nếu ta đã biết đi, muốn tự đi một mình và quan trọng nhất là khiến ba mẹ tin rằng ta có thể tự đi một mình, biết vịn vào ghế, biết tự đứng dậy được khi vấp ngã. Có bao giờ bạn tự hỏi: tại sao cha mẹ có thể thả tay ra cho bạn đứng chựng khi bạn mới mười tháng tuổi, mà vẫn xúc cơm cho bạn khi đã mười tám tuổi. Nếu mẹ có thể xúc cơm cho bạn thì có gì lạ đâu nếu ba không yên tâm để bạn lái xe một mình…
Nếu chúng ta không chứng tỏ được rằng mình có thể tự làm, người khác sẽ tin rằng chúng ta không thể tự làm. Nếu bạn không tự làm được điều dễ dàng, cớ sao tôi phải tin rằng bạn có đủ trách nhiệm và nhận thức để làm điều khó hơn?
Trang Tử nói: “Gà rừng trong đầm cỏ đi mười bước mới nhặt được một hạt thức ăn, đi trăm bước mới uống được một ngụm nước. Nhưng chúng không mong cầu được sống trong lồng” Chúng ta có giống được những con gà rừng không? Nếu chúng ta vì ưa thích thóc gạo bày sẵn mà chịu chui vào chiếc lồng. Rồi từ sau những song tre đó, chúng ta đòi trả tự do?
Từ xúc cơm, xếp quần áo, sách vở, đến chọn trường, chọn nghề, tìm việc, kiếm sống, chọn chồng chọn vợ, chọn tương lai… Chúng ta sẽ quá quen với việc được sắp sẵn. Chúng ta ưa làm việc đã được người khác lên kế hoạch hơn là tự mình vạch ra kế hoạch. Chúng ta chuộng thói quen hơn sáng tạo. Chúng ta chỉ vui khi có người tâng bốc, chỉ hết buồn nếu có người an ủi vuốt ve. Chúng ta thậm chí không muốn tự phân biệt sai đúng trừ khi có người làm thay. Chúng ta không thể làm chủ đời mình. Cứ như vậy, chúng ta đánh mất bản năng của gà rừng và biến thành con chim trong lồng lúc nào không biết nữa. Thậm chí, một con chim trong rất nhiều lớp lồng.

Như vậy đó, anh bạn! Không ai lấy mất tự do của chúng ta, chỉ có chúng ta tự nguyện đánh mất nó, thay vì cố gắng giữ lấy nó. Chúng ta, ở tuổi mười tám, thỉnh thoảng kêu gào rằng tại sao cha mẹ lấy hết tự do của con, mà quên rằng chính mình đã đánh mất tự do – từng chút một – từ lâu lắm. Khi được ai đó làm thay một việc nhỏ, và chúng ta chấp nhận việc ấy như điều hiển nhiên, nghĩa là chúng ta đã tự đan thêm một song tre cho chiếc lồng đời mình.
Tác giả Robert Fulghum từng trở thành best seller với một cuốn sách có tựa đề thú vị “Tất cả những gì tôi cần phải biết tôi đều được học ở nhà trẻ”. Đó là những nguyên tắc sống: chia sẻ, chơi công bằng, không đánh bạn, để đồ đạc vào chỗ cũ, không lấy những gì không phải của mình, dọn dẹp những gì bạn bày ra, nói xin lỗi khi làm tổn thương ai đó, rửa tay trước khi ăn, học một ít, suy nghĩ một ít, vẽ và hát và nhảy múa và chơi và làm việc một ít mỗi ngày, ngủ trưa, có ý thức về những điều kỳ diệu, cây cối và các con vật đều chết – và chúng ta cũng vậy, từ đầu tiên và quan trọng nhất cần phải học: quan sát.
Hãy đếm xem: 100 chữ. Những gì cần phải học chỉ như vậy. Chúng ta được học ở nhà trẻ nhưng đã đánh rơi dần trong quá trình lớn lên. Cũng như khi sinh ra, ta đã có sẵn bản năng độc lập nhưng lại đánh mất nó trong quá trình sống. Không có bản năng độc lập, chúng ta không thể nắm giữ được tự do. Nghĩa là trước khi đòi tự do, bạn phải tìm lại bản năng độc lập của mình.
Mọi thứ đơn giản hơn chúng ta tưởng. Thậm chí có thể nói rằng cuộc đời này rất giống một nụ hôn, nó có thể tệ hơn, hay tuyệt hơn nụ hôn trước đó, nó có thể khiến bạn hạnh phúc, cũng có thể làm bạn vỡ mộng, nó có thể khiến bạn nhận ra mình yêu, hay nhận ra mình hoàn toàn không yêu. Nó chứa đựng những bí mật mà bạn chỉ khám phá được sau khi đã hoàn thành.
Hãy tự mình hoàn thành, và bạn có thể nói bạn là chúa tể của chính mình. Như những chú gà rừng.
Hãy luôn luôn kiêu hãnh và tự do như những chú gà rừng.

Thứ Hai, 13 tháng 10, 2008

biển cha trời con



Tuổi trẻ của cha là biển cả. Tuổi trẻ của con sẽ là bầu trời.

Tôi mở cửa sổ, nhìn bầu trời đêm Bangkok bao la. Những tòa cao ốc vẫn óng ánh đèn và xe hơi vẫn nườm nượp trên dãy cao tốc trước mặt. Bất giác, tôi đưa tay lên cao, chẳng rõ bản thân muốn làm gì. Không viễn tưởng thèm hái một ngôi sao. Cũng không toan tính bắt chút không khí vào đùa chơi trong lòng bàn tay.
Tôi nhìn chằm chặp đôi tay mình mảnh dẻ. Bàn tay tôi nhỏ nhắn như tay em bé gái, “đôi tay ếch con” như ngày bé cha mẹ vẫn gọi yêu. Cả bàn tay mềm mịn tưởng không xương, chẳng lấm dù là một vết chai của việc cầm bút. Ai từng nắm tay, bắt tay tôi đều ấn tượng rằng tôi rất sướng: đôi tay chẳng động việc gì.
Ngắm tay mình kiêu sa giữa trời, tôi nhớ đôi tay cha to lớn, khô ráp, đen nắng, sần chai – dấu tích mà thời gian cũng không làm phai được từ chuỗi tháng ngày ông lênh đênh biển cả. Tôi nợ đôi tay ấy quá nhiều. Thế nhưng số lần – đếm được bằng đầu ngón tay – tôi nắm đôi tay ấy lại vào những ngày mà nó giằng co giữa nóng lạnh của sự sống và cái chết. Tôi không mảy may chuyện mình nên nắm tay cha khi tay ông còn ấm áp.
Lần cuối chạm tay cha, khi luồn tay mình vào bàn tay ông đã cứng, tôi biết chắc một điều: từ giây phút ấy trở đi, mỗi lần mân mê đôi tay mình công chúa, tôi sẽ hối hận. Sách vở, lời hay ý đẹp từ internet khuyên tôi quên chuyện buồn mà vui sống. Tôi chỉ cười nhạt. Những ai tin lời hoa mỹ đó, chỉ vì họ chưa đến lúc nghiệm ra rằng trong cuộc đời, mỗi người chắc chắn sẽ sống cùng ít nhất một nỗi day dứt. Quên đôi khi là bất khả thi. Ký ức chỉ tạm lắng và khi gặp một hình ảnh, một sự vật nhang nhác, nó sẽ khơi lại.
Tôi, đáng thương và đáng trách thay, ân hận không chỉ một nỗi.
Tôi đã luôn nung nấu viết một tiểu thuyết về cha – tuổi thơ cô đơn, tuổi trẻ xa xứ, cuộc đời ngang dọc nhiều miền đất và đại dương. Tôi đã định dành cho ông bất ngờ to lớn. Tôi đã nghĩ mình còn ối thời gian.
Khi tôi bắt đầu viết về ông – lúc này đây – thì món quà đã thành lời tạm biệt. Những câu chuyện trong đầu tôi bỗng dưng không liền mạch, không phiêu lưu, không lãng mạn như từng ngẫm nghĩ. Chỉ có những khoảnh khắc rất thật về cha mà trí nhớ tôi, một cách bí hiểm, đã chọn lưu lại.

Biển
1. Tôi ghét biển. Biển đem cha đi mãi suốt những ngày tôi bé con. Nên theo góc độ nào đó, biển đã nuốt mất một phần tuổi thơ của tôi vào bụng.
Vài tháng sau khi tôi chào đời, cha bắt đầu đi tàu. Những chuyến buôn bán vượt đại dương không cho phép cha chứng kiến tôi thực hiện cú lẫy đầu tiên và nghe tôi bi bô “ba ba…”. Khi cất tiếng gọi cha lần đầu, tôi nói đã sõi lắm rồi. Sau những chuyến hải trình kéo dài hàng tháng trời, có khi ngót nghét cả năm, cha luôn đem về cho tôi cơ số quà bù đắp thương nhớ. Sinh ra thời đất nước chỉ vừa mở cửa, nhưng tuổi thơ tôi đầy ứ những hộp sữa bột ngoại, những lon nước trái cây đắt đỏ, búp bê mặc váy ren hồng biết đi biết hát, máy bay điều khiển từ xa… Còn nhiều nhiều nữa những thứ mà trẻ con ngày ấy chẳng biết là có trên đời để mà tưởng tượng, thèm muốn. Nên theo góc độ nào đó, biển đã cung phụng cho ấu thơ tôi được vạn phần sung sướng.
Dù thế, tôi vẫn ghét biển.

2. Cha lên bờ khi tôi 8 tuổi. Vốn quen cha chỉ ở nhà dăm ba tháng mỗi năm, nên việc ông có mặt trong tất cả bữa ăn gia đình gây cho tôi chút lạ lẫm ban đầu. Từ một món thực phẩm theo mùa như bánh trung thu, ông trở thành cơm bữa. Cái trầm trồ nghe chuyện về bến cảng, chim âu, cổ tích các loài cá và những vùng đất lạ mòn vẹt dần khi đêm nào cha cũng kể. Cái nô nức của một chiều tan học thấy cha đón ở cổng trường cũng lụi tàn nhanh. Mỗi ngày mỗi gặp, có lẽ vì thế mà tôi càng ít gần ông. Đôi mắt của con bé 8 tuổi chỉ mới biết ưa thích những thứ hiếm lạ, chứ nào hay việc tìm kiếm, trân trọng điều quý báu ẩn giấu trong những cái quen thuộc.
Từ ngày cha thôi đi tàu, mùa Hè nào gia đình tôi cũng đi nghỉ mát ở biển. Cha hào hứng ra mặt ngay từ phút hành lý được chất lên xe, và càng gần đến biển tinh thần ông càng phấn chấn. Đến nơi, cha ùa ra tắm biển trước các con, dẫu Mặt Trời treo bỏng rát trên đỉnh đầu. Tôi nhận ra, cha dành cho biển một thứ tình cảm khá phức tạp và vĩ đại. Một khối lòng trộn lẫn yêu đương đôi lứa, thân thuộc anh em và kính trọng hàm ơn. Ánh mắt ông nhìn biển… Da diết và bỏng cháy. Êm đềm và tha thiết. Thuộc về và ngưỡng vọng.
Tôi hy vọng sau này mình cũng có thể nhìn một điều gì đó trong cuộc sống này bằng ánh mắt như thế.

3. Ngày nhỏ, cứ đi tắm biển là tôi phăm phăm cùng chiếc phao ra xa thật xa, mặc kệ hôm ấy biển động sóng cao đến đâu. Máu liều thủy thủ của cha có lẽ đã di truyền vào cô con gái.
Nhưng từ năm 10 tuổi, tôi mất hứng thú với việc tắm biển, nếu không muốn nói là hoảng sợ. Năm đó, tôi sém chết đuối khi sa chân vào một hố lốc xoáy gần bờ. Lúc lặn ngụp trong hốc nước cao quá đầu, tôi vẫy vùng để ngoi lên nhưng lòng chẳng thoáng chút sợ chết. Tôi nhớ rõ như thế. Tôi biết cha – một thủy thủ, một tay bơi cự phách – sẽ cứu. Và ông đã đến nhấc bổng tôi lên, nâng chặt trong đôi tay rắn chắc.
Bá cổ cha, hổn hển thở vì sặc nước, một niềm tin, một cảm giác an toàn đã đến trong tôi và ở lại suốt nhiều năm sau này: dù bất cứ chuyện tồi tệ gì xảy đến, dù sai phạm gì, tôi vẫn luôn có cha nâng đỡ. Dù tôi chạy đi xa như thế nào, vẫn luôn có một vòng tay để ùa về, rồi vùi chặt trong đó.

4. Có một lần dạo biển cùng cha, tôi chẳng nhớ rõ khi ấy mình bao nhiêu tuổi, còn rất bé hay đã dậy thì, ông đã nhìn về phía những con sóng đang đạp nhau vào bờ và nói: “Bầu trời của đàn ông ngày càng rộng. Bầu trời của phụ nữ ngày càng hẹp. Nhưng con, hãy đi thật xa vào, con gái!”.
Ý nghĩa câu nói đấy, đến tận ngày nay tôi vẫn còn chút mơ hồ. Những người cha thường mong con gái sống an nhàn, yên lắng và hạnh phúc. Nhưng cha tôi dường như đã lái tôi sang một con đường rộng, nhiều màu nhưng cũng hứa hẹn không ít trồi sụt. Cha lạ. Mà có lẽ ông không lạ. Ông chỉ là đã nhìn thấu con người tôi từ lúc ấy.
Và ngay giây phút đó, câu nói ấy đã khiến tôi ngước lên bầu trời, mơ ước và quyết định hòa làm một: Tôi sẽ đi thật xa, sẽ nhìn thế giới thật nhiều, nhưng sẽ bằng một con đường khác với cha. Tôi sẽ kiến tạo con đường riêng của mình để có được một tâm hồn giàu có như ông.

Trời
5. May mắn (cho xã hội) là tôi đã chẳng thể thành bác sĩ, nếu không tôi hẳn đã là một tay lang băm cự phách. Hay có khi tôi đã chán ghét trường Y, ruồng rẫy cái ước mơ một-thời-rất-lớn mà dở dang việc học.
May mắn là cha đã nhận ra tôi không hợp làm bác sĩ, bằng mọi cách ngăn cản. Khá ngược đời so với nhiều bậc cha mẹ tìm mọi cách tống con vào trường Y vì sang, vì tương lai sáng lạn.
Thật ra, nếu ép thân cố gắng, tôi cũng có thể thành một bác sĩ giỏi. Nhưng tôi vốn không có tố chất của một bác sĩ tốt – Điều này phải nhiều năm sau tôi mới đủ can đảm thừa nhận. Một bác sĩ giỏi mà không tốt thì đại họa! May mắn là cha đã nhận ra! Con cái khi bị cha mẹ can ngăn chuyện gì thường cố chấp, càng lao đầu làm theo ý mình để chứng tỏ bản thân. Cái tự ái trẻ con khiến con cái quên rằng những đôi mắt được thời gian tôi luyện có khả năng nhìn sâu và nhìn xa hơn. Vì vậy, chỉ một lần cũng được, trước khi quyết định đời mình, hãy lắng nghe cha mẹ. May mắn là tôi đã làm như thế.
Tôi yêu và tận hưởng cuộc sống mình hiện tại nhiều vô đối. Nhiều đến mức tôi quên mất đã có thời mình học ngày học đêm để đậu y khoa. Nhiều đến mức tôi không nhớ cả lý do mình khoái thành bác sĩ. Khi bản thân nhận ra chẳng thể nhớ được điều gì đã gieo mầm ước mơ, tôi chắc chắn ước mơ đó chỉ như cú say nắng đầu đời. Đẹp nhưng chóng phai.
Thật ra lúc đó tôi đã toan dọn khỏi nhà, làm mình làm mẩy để được toại ý. May mắn là cha đã kể cho tôi nghe một câu chuyện…
Năm ấy, cha sang Nga du học, nung nấu thành giáo viên Vật lý. Nhưng cuối cùng, ông chuyển sang Hàng hải vì đất nước cần nhân lực ngành ấy. Đến khi về nước, ông trở thành giảng viên dạy trong trường Hàng hải. Rồi các con ra đời, ông bỏ công việc ổn định, theo thuyền vượt ngàn dặm đại dương kiếm tiền nuôi con.
Mơ ước thưở thanh niên của cha – ông từ bỏ, tái theo đuổi, rồi lại từ bỏ. Để tôi được sinh ra và lớn lên trong sung sướng. Để giờ đây tôi có thể theo đuổi bất kỳ ước vọng nào bản thân nghĩ tới.
Mơ ước thưở thanh niên của cha – tôi đã nhớ về nó suốt trên con đường của mình, mỗi khi tôi mệt lả và muốn từ bỏ. Tôi được bọc trong may mắn, khi có một người hy sinh ước mơ cá nhân, cho tôi được tự chủ sống như mình thích. Nên tôi chỉ có thể đi, không thể dừng. Nên tôi có quyền ngã, nhưng bắt buộc phải biết đứng dậy.

6. Cha ốm, lần thứ hai.
Ông nằm yên trên giường, mắt khép hờ, mặt đượm đầy mệt mỏi. Tôi đưa tay vuốt làn tóc bạc mỏng mảnh trên đầu ông, chợt thấy là lạ. Cũng phải vài năm rồi tôi mới nhìn cha kỹ đến thế. Ông già đi quá nhiều so với hình ảnh mà tôi luôn giữ trong đầu. Tôi nhìn và bỗng nghĩ… Những nếp nhăn, những vết sẹo, những vết chai trên người cha – mỗi vết đều mang một câu chuyện. Những câu chuyện trải dài từ thưở ấu thơ ở làng quê nghèo, sang tuổi niên thiếu trên nước Nga trắng tuyết, sang tuổi trẻ bôn ba biển cả… Tôi rất tò mò, nhưng chẳng hiểu sao lại không thể hỏi thành lời khi cha tỉnh dậy. Tôi chỉ lén nhìn mà tưởng tượng về những dấu vết cuộc sống đã đi qua đời ông, những sự kiện đã dần hun đúc nên con người ông.
Khi thiêm thiếp trên giường, trong giấc mơ lúc ốm, trong giấc mơ lúc biết mình gần đất hơn trời, cha đã nghĩ gì? Những khoảnh khắc nào của cuộc đời đã tái hiện lại trong chuỗi ký ức chập chờn ấy?
Cha thiêm thiếp trên giường. Tôi bỗng thấy xa lạ và xấu hổ. Cha – người mà tôi nghĩ mình thân quen nhất, hóa ra tôi lại chẳng mấy thấu hiểu.

7. Cha ốm, lần thứ ba.
Bác sĩ bảo ông không qua khỏi hai ngày. Nhưng ông đã hôn mê gần một tháng trước khi vĩnh viễn lìa xa tôi.
Tôi đã không khóc quá nhiều trong những ngày tang ma. Tôi đã không khóc khi nhớ về ông. Tôi chỉ luôn rối trong ngàn ngàn câu tự hỏi: Vì sao ông lại cố gắng kéo dài sự sống, bất chấp lục phủ ngũ tạng đều mệt nhoài? Là ông muốn sống, dù chỉ đời thực vật gắn liền máy thở? Là ông chuẩn bị tâm lý cho tôi, phải khi chắc rằng tôi sẽ được định tâm và định thần, không quỵ ngã thì ông mới rời đi? Hay là cá tính ngoan cường không khuất phục của một thủy thủ đã ăn sâu vào máu thịt, buộc ông chống chọi đến cùng?
Mãi mãi chỉ là những câu tự hỏi.
Mãi mãi tôi sẽ luôn tự nhủ rằng mình sẽ kiên cường đến phút cuối bất chấp con đường mình đi gập ghềnh thế nào. Cuộc sống quý lắm. Một người sống trên đời là vì mình, và không chỉ vì mình.

8. Cha mất. Gần 3 tuần sau, tôi chuyển sang Bangkok làm việc. Người trợn mắt trách tôi vô tâm, vô cảm, cha vừa mất mà đã “hồi phục” chóng vánh để tìm một chân trời mới. Người hiểu tôi hơn thì thở dài, cứ khuyên tôi khóc đi cho nhẹ lòng, đừng cố ép mình tươi tỉnh, cứng rắn.
Tôi chẳng tìm thấy một cái cớ nào để bưng mặt khóc mãi. Nhớ một người, có nhất thiết phải sầu não? Thương một người, cố nhất thiết tỏ ra mặt cho ngàn vạn người khác xem?
Cha mất. Tôi đi. Đã đến lúc công chúa rời chiếc lồng son và để cuộc đời đánh đập đôi chút. Đã đến lúc đôi tay mềm như bún của tôi xây xát đôi chút.
Tôi đang đi những bước đầu tiên trên con đường chỉ có một hướng tiến-về-phía-trước. Tôi đang học cách chịu trách nhiệm 100% với cuộc đời của mình. Cha không còn là bình phong cho những sự vụ rắc rối tôi gây ra. Cha không còn lặng lẽ chờ tôi trong phòng khách tối đèn, chỉ an tâm đi ngủ khi tôi mò về nhà – thường rất muộn, sau hàng giờ dài miệt mài làm việc và bù khú bạn bè.
Tôi đang đi với một nụ cười. Vì cha yêu nụ cười tôi. Vì cha là một tia nắng ấm áp luôn tỏa sáng dẫn đường cho cô con gái rượu.

9. Một mình trên chuyến bay rời Việt Nam. Một mình trên bầu trời. Tôi nhìn những tảng mây ú nụ, xốp bồng rất dễ thương bên ngoài cửa sổ, bất chợt vui thích trong ý nghĩ rằng biết đâu “thiên thần papa” của tôi đang ngáy khò khò trên một đám mây to xinh nào đấy. Có khi tôi đã lướt qua ông mà không thể thấy.
Trên đùi tôi để mở cuốn album hình của ông xa xưa trong một mùa nước Nga phủ tràn tuyết trắng. Những tấm hình lẩn khuất một chuyện tình…
Ngoài mẹ tôi, tôi chưa từng biết đến những chuyện tình – một phần tuổi trẻ đa sắc của ông. Tôi tưởng tượng… rồi bỗng tay nắm lấy tay mình. Nhất định một ngày, tôi sẽ tìm thấy một bàn tay khác để sưởi. Nhất định một ngày, tôi sẽ tay trong tay một người nào đấy cùng bước trong cuộc sống này. Nhất định một ngày, cha tôi sẽ yên lòng rằng cô con gái nhỏ của ông sẽ không một mình lang thang bầu trời.